Thứ Ba, 5 tháng 1, 2021

Hổ

 


HỔ

Hổ lại hoàn toàn khác
Là những chú mèo con
Những đứa trẻ nhỏ nhất
Cũng có thể chơi cùng.
 
Những bà mẹ đông con
Đem hổ về nuôi nấng
Thì hổ sẽ trả ơn
Cho những gì phí tổn.
 
The Tiger
 
The tiger, on the other hand,
Is kittenish and mild,
And makes a pretty playfellow
For any little child.
 
And mothers of large families
(Who claim to common sense)
Will find a tiger well repays
The trouble and expense.
 


Sư tử

 


SƯ TỬ

 Sống ở nơi sa mạc
Sư tử có bờm cao
Và to lớn cái đầu
Cái miệng rất khủng khiếp.
 
Tiếng gầm ai cũng sợ
Móng sư tử để trần
Và trẻ em thì không
Chơi đùa cùng sư tử.
 
The Lion
 
The Lion, the Lion, he dwells in the Waste,
He has a big head and a very small waist;
But his shoulders are stark, and his jaws they are grim,
And a good little child will not play with him.  



Con trăn

 


CON TRĂN

 Tôi khuyên bạn không nên nuôi trăn
Nó hay mắc bệnh sởi, đau mắt hột
Bạn sẽ cảm thấy khó chịu vô cùng.
 
Nhưng nếu như bạn thực sự muốn
Nuôi trăn để trang trí nhà mình
Thì bạn tự mình quyết đinh.
 
Nhưng phải để trăn tránh xa tiếng nhạc
Và nếu trong cơn nổi loạn điên cuồng
Bạn phải trừng phạt nó rất nghiêm khắc.
 
Tôi có người cô ở Yucatan
Mua con trăn từ một người nào đó
Và nuôi giữ nó như con vật cưng.
 
Cô bị chết, bởi vì cô ấy quên
Những quy tắc nhỏ nhặt và đơn giản
Bản chất rắn vẫn sống trong con trăn.
 
The Python
 
A python I should not advise –
It needs a doctor for its eyes
And has the measles yearly.
 
However, if you feel inclined
To get one (to improve your mind ,
And not from fashion merely),
 
Allow no music near its cage;
And when it flies into a rage
Chastise it, most severely.
 
I had an aunt in Yucatan
Who bought a Python from a man
And kept it for a pet.
 
She died , because she never knew
Those simple little rules and few –
The Snake is living yet.  
 


Chim kền kền

 

CHIM KỀN KỀN

 Kền kền thường chỉ ăn một bữa
Đó là lý do tại vì sao
Kền kền không được như chúng ta
Những người luôn mạnh khỏe.
 
Mắt chim mờ, còn đầu chim trơ trụi
Và chim cứ ngày một gầy đi
Đó cũng là bài học cho chúng ta
Cần ăn đủ: sáng, trưa và tối!
 
The Vulture
 
The Vulture eats between his meals,
And that's the reason why
He very, very rarely feels
As well as you or I.
 
His eye is dull, his head is bald,
His neck is growing thinner.
Oh, what a lesson for us all
To only eat at dinner!
 


Bò Tây Tạng

 


CON BÒ TÂY TẠNG

 Tôi nghĩ rằng trẻ em rất thích bò
Bởi không cần kỹ năng gì đặc biệt
Cưỡi trên lưng bò chỉ là chuyện vặt
Còn dễ dàng hơn khi dắt bò đi.
 
Người Tây Tạng đã sống từ xa xưa
Trên vùng cao nguyên hoang vu bão tuyết
Con bò trở thành vật nuôi thân thiết
Người Tây Tạng biết rất rõ điều này.
 
Con bảo bố mua cho một con bò
Nếu như người bố của con giàu có
Thì bố sẽ mua ngay, mà có thể
Sẽ không mua, nếu như bố ky bo.
 
The Yak
 
As a friend to the children commend me the Yak.
   You will find it exactly the thing.
It will carry and fetch, you can ride on its back,
   Or lead it about with a string.
 
The Tartar who dwells on the plains of Tibet
   (A desolate region of snow)
Has for centuries made it a nursery pet,
   And surely the Tartar should know!
 
Then tell your papa where the Yak can be got,
   If he is awfully rich
He will buy you the creature – or else he will not.
   (I cannot be positive which.)
 
 

Chim Dodo

 


 

CHIM DODO 
 
Chim dodo thường đi dạo loanh quanh
Đón ánh nắng mặt trời và hít thở.
Mặt trời vẫn sưởi ấm trên đồng cỏ –
Nhưng dodo từ lâu đã không còn!
 
Chim dodo không còn ở trần gian
Tiếng của chim đã im lìm mãi mãi –
Tuy nhiên bạn vẫn có thể nhìn thấy
Mỏ và xương chim trong những bảo tàng.  
_____________

*Dodo (tiếng Latin: Raphinae) – là loài chim không bao giờ bay sống trên quần đảo Mascarene (giữa Ấn Độ dương) đã tuyệt chủng do bị con người săn bắt và do các loài động vật có vú du nhập ăn thịt. Chim Dodo cũng là một nhân vật trong cuốn sách nổi tiếng “Alice ở xứ sở thần tiên” của Lewis Carroll. Chính nhờ cuốn sách này mà dodo được biết đến rộng rãi ở châu Âu và thậm chí đầu thế kỷ 19 nhiều người tin rằng sự tồn tại của loài chim này là một huyền thoại.
 
The Dodo
 
The Dodo used to walk around,
And take the sun and air.
The sun yet warms his native ground—
The Dodo is not there!
 
The voice which used to squawk and squeak
Is now forever dumb —
Yet may you see his bones and beak
All in the Mu-se-um.
 
 

Đề trong sách tặng trẻ em

  

 
ĐỀ TRONG SÁCH TẶNG CHO TRẺ EM
 
Này các con! Đừng vứt cuốn sách này
Hãy gắng giữ mình trước bao tật xấu
Đừng đem cắt những bức hình khỏi đây
Mà hãy giữ sách này như kho báu.
 
Các con là người kế thừa mọi thứ
Tạo ra bằng trí tuệ của ông cha
Những bàn tay xinh đẹp như bông hoa
Không để xé những trang sách này nhé.
 
Những gì tốt đẹp con nên nhận lấy
Và biết bỏ lại những gì xấu xa
Biết học hỏi khi đưa bàn tay ra
Để bắt tay với những người lớn tuổi.
 
Còn trước khi đi ngủ nhớ đừng quên
Đưa bàn tay nhỏ bé cầu nguyện Chúa
Hãy cầu nguyện cho những ai đang ở
Và đang đi vào xứ sở thần tiên.
 
On the Gift of a Book to a Child
 
Child! do not throw this book about!  
   Refrain from the unholy pleasure  
Of cutting all the pictures out!
   Preserve it as your chiefest treasure.
 
Child, have you never heard it said  
   That you are heir to all the ages?
Why, then, your hands were never made
   To tear these beautiful thick pages!
 
Your little hands were made to take
   The better things and leave the worse ones:  
They also may be used to shake
   The Massive Paws of Elder Persons.
 
And when your prayers complete the day,  
   Darling, your little tiny hands
Were also made, I think, to pray  
   For men that lose their fairylands.



Sách về động vật

 


 
SÁCH VỀ ĐỘNG VẬT CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ HƯ
 
Lời mở đầu
 
Tôi gọi bạn là đứa trẻ hư
Và đặt làm tiêu đề cuốn sách
Bạn thô lỗ, hoang dã. Nhưng nếu khác
Là điều không có ở tuổi thơ.
 
Tôi hy vọng là bạn hiểu đúng
Những bài học từ cuốn sách này
Để bạn có thể trong phút giây
Trở nên nhu mì và nhã nhặn.
 
Khi bạn bắt đầu một trò chơi
Thì nhớ phải quan sát cẩn thận
Đừng chạy lung tung, đừng nhảy cẫng
Giống như chuột túi Kangaroo.
 
Đừng như những đứa trẻ lang thang
Ăn đừng như lợn nhai chóp chép
Khi đi ngủ bạn đừng khụt khịt
Giống như những chú chó con.
 
Đừng bắt chước điệu bộ con khỉ
Hay bắt chước con gấu biếng lười
Hãy siêng năng chăm chỉ vui tươi
Đầu tóc gọn gàng và sạch sẽ.
 
Biết kiểm soát hành động của mình
Để người ta nói lời về bạn:
“Bé giống như con mèo xinh xắn
Bé giống như con cú thông minh”.
 
Introduction: The Bad Child's Book Of Beasts
 
I call you bad, my little child,
Upon the title page,
Because a manner rude and wild
Is common at your age.
 
The Moral of this priceless work
(If rightly understood)
Will make you - from a little Turk -
Unnaturally good.
 
Do not as evil children do,
Who on the slightest grounds
Will imitate the Kangaroo,
With wild unmeaning bounds:
 
Do not as children badly bred,
Who eat like little Hogs,
And when they have to go to bed
Will whine like Puppy Dogs:
 
Who take their manners from the Ape,
Their habits from the Bear,
Indulge the loud unseemly jape,
And never brush their hair.
 
But so control your actions that
Your friends may all repeat.
'This child is dainty as the Cat,
And as the Owl discreet.'

 

HILAIRE BELLOC

 

Hilaire Belloc (tên đầy đủ Joseph Hilaire Pierre René Belloc, 27 tháng 7 năm 1870 – 16 tháng 7 năm 1953) – nhà văn, nhà thơ Anh gốc Pháp. Belloc là một trong những nhà văn Anh xuất sắc nhất đầu thế kỷ 20 với gần 150 đầu sách, tuy nhiên ông nổi tiếng trước hết nhờ những cuốn thơ viết cho trẻ em mà ngày nay cả trẻ em lẫn người lớn vẫn đọc một cách thích thú.
 
Tiểu sử
Belloc sinh ở Saint-Cloud, ngoại ô Paris. Cha ông là người Pháp, mẹ là người Anh. Chị gái Marie Belloc cũng trở thành nhà văn. Thời thơ ấu sống ở Anh, tại làng Slindon ở hạt Tây Sussex. Sau này ông đã thể hiện nỗi nhớ vùng đất này trong nhiều bài thơ của mình.
 
Mẹ của ông, Bessie Rayner Parkes (1829-1925) cũng là một nhà văn và là cháu gái của nhà hóa học người Anh Joseph Priestley. Năm 1867 bà kết hôn với luật sư Louis Belloc, con trai của họa sĩ người Pháp Jean Hilaire Belloc. Năm 1872, 5 năm sau khi cưới, Louis Belloc qua đời, đồng thời với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán khiến gia đình trở nên nghèo túng. Người góa phụ trẻ cùng con trai và con gái Marie trở về Anh, nơi Hilaire đã trải qua thời niên thiếu và thời tuổi trẻ của mình, ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội Pháp.
 
Sau khi tốt nghiệp trung học tại Oratory School vào năm 1891 Belloc phục vụ hết thời hạn nghĩa vụ quân sự với tư cách là một công dân Pháp tại một trung đoàn pháo binh gần Toul. Belloc là người có thể lực tốt, từng đi bộ nhiều nơi ở Anh và châu Âu. Khi tán tỉnh người vợ tương lai Elodie Hogan (1868–1914), một người Mỹ mà ông gặp lần đầu tiên vào năm 1890, Belloc đã đi bộ suốt quãng đường từ miền trung tây Hoa Kỳ đến nhà của cô ở bắc California. Hai người kết hôn năm 1896.
 
Năm 1906 ông mua một ngôi nhà có tên là King's Land tại Shipley, hạt Tây Sussex, nơi ông đã nuôi nấng con cái của mình và sống cho đến trước khi qua đời không lâu. Elodie và Belloc có 5 người con trước khi bà qua đời vào năm 1914 vì bệnh cúm. Sau khi bà qua đời, Belloc mặc áo tang cho phần còn lại của cuộc đời mình và giữ phòng của bà đúng như lúc bà để lại.
 
Belloc bị đột quỵ vào năm 1941 và không bao giờ hồi phục sau đó. Ông mất ngày 16 tháng 7 năm 1953 tại Viện dưỡng lão Mount Alvernia ở Surrey do bị bỏng và sốc sau cú ngã khi đặt một khúc gỗ vào lò sưởi tại King's Land. Thi hài của ông được chôn cất tại Đền thờ Đức Mẹ An ủi ở West Grinstead thuộc hạt Tây Sussex, nơi ông thường xuyên tham dự Thánh lễ với tư cách là một giáo dân.



Jabberwocky

 


 

JABBERWOCKY
 
Chuyện kể rằng xưa có con quái vật
Móng vuốt sắc, đôi mắt nó đỏ bừng
Khi nằm bên sông, khi ở trong rừng
Tiếng gầm của nó vô cùng khủng khiếp.
 
“Hãy coi chừng Jabberwock, con trai!
Hàm nó cắn, móng nó dùng để bắt!
Và coi chừng loài chim Jubjub
Người Bandersnatch dữ nhất đời!”
 
Nhưng người con trai đi mài sắc kiếm
Trong một thời gian phóng ngựa đi tìm
Rồi chàng ngồi nghỉ dưới cây Tum Tum
Và suy nghĩ một hồi trong im lặng.
 
Trong lúc đó, ở gần nơi chàng đứng
Jabberwock với đôi mắt đỏ bừng
Đi xuyên qua những bụi cây trong rừng
Và gầm lên khủng khiếp khi nó đến!
 
Một hai, một hai… chàng giơ thanh kiếm
Rồi đâm vào con quái vật thật mau
Con quái vật đã chết, chàng chặt đầu
Mang theo mình trở về nơi chàng đến.
 
“Có thật con đã giết Jabberwock?
Hãy để cha ôm con nhé, con trai
Thật tuyệt vời, ngày vui nhất là đây!”
Và ông cười thầm trong niềm hạnh phúc.
 
Chuyện kể rằng xưa có con quái vật
Móng vuốt sắc, đôi mắt nó đỏ bừng
Khi nằm bên sông, khi ở trong rừng
Tiếng gầm của nó vô cùng khủng khiếp.
____________
*Jabberwocky – một trong những bài thơ hay nhất của thơ vô nghĩa (nonsensical poetry) – được Carroll đưa vào chương I của cuốn “Alice ở trong gương” (Through the Looking-Glass and What Alice Found There), dịch sát từng chữ sẽ là “Nhìn qua gương soi, và Alice tìm thấy gì?” Nó cũng được coi là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca nhân loại nói chung.
 
Jabberwocky
 
`Twas brillig, and the slithy toves
Did gyre and gimble in the wabe:
All mimsy were the borogoves,
And the mome raths outgrabe.
 
«Beware the Jabberwock, my son!
The jaws that bite, the claws that catch!
Beware the Jubjub bird, and shun
The frumious Bandersnatch!»
 
He took his vorpal sword in hand:
Long time the manxome foe he sought —
So rested he by the Tumtum tree,
And stood awhile in thought.
 
And, as in uffish thought he stood,
The Jabberwock, with eyes of flame,
Came whiffling through the tulgey wood,
And burbled as it came!
 
One, two! One, two! And through and through
The vorpal blade went snicker-snack!
He left it dead, and with its head
He went galumphing back.
 
«And, has thou slain the Jabberwock?
Come to my arms, my beamish boy!
O frabjous day! Callooh! Callay!»
He chortled in his joy.
 
`Twas brillig, and the slithy toves
Did gyre and gimble in the wabe;
All mimsy were the borogoves,
And the mome raths outgrabe.